Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

    Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước

    UntilU
    UntilU
    Thành Viên
    Thành Viên


    Nam
    Tổng số bài gửi : 130
    Age : 36
    Đến từ : HOU
    Hiện đang là : Student
    Registration date : 22/12/2007

    Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước Empty Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước

    Bài gửi by UntilU Sat Apr 19, 2008 1:41 am

    Tâm Trạng Khi Điên

    Nguyễn Nguyên Phước

    Ngày hôm qua, tôi vừa tròn hai mươi tám tuổi. Người ta đưa tin về một
    quan chức ngành thể thao hiếp dâm một bé gái vị thành niên. Tôi nhìn
    bức ảnh người đàn ông có mái tóc muối tiêu. Một khuôn mặt tẻ nhạt. Cuộc
    đời ông ta chắc cũng tẻ nhạt như thế. Nhà ông ta ở gần khu nhà tôi. Một
    căn nhà sang trọng, ông ta ngồi đó lơ đãng gắp thức ăn. Người ta tin
    rằng ngủ với những cô gái đồng trinh sẽ đem lại may mắn. Ông ta đang
    ngồi tù. Đứa em họ tôi cũng đang ngồi tù. Lúc tôi học năm thứ hai, thấy
    đưa tin truy nã nó. Tôi cũng không chắc chắn mãi đến khi bố tôi đọc báo
    và xác nhận. Đã lâu lắm rồi ông không đến nhà nó chơi. Nó lừa đảo ngân
    hàng hơn một tỷ. Lúc đó nó hai mươi tuổi, bằng tuổi tôi. Lúc đó tôi
    đang học năm thứ hai, tôi chưa bao giờ có đến một triệu.

    Tôi cố gắng hình dung khuôn mặt đứa em tôi. Nó sống ở một nơi mà xung
    quanh toàn bọn đầu trộm đuôi cướp. Mẹ tôi nói rằng, nó đã thành đàn bà
    năm mười bốn tuổi. Tôi thì đến bây giờ vẫn chưa từng hôn một đứa con
    gái nào cả. Tôi không thể tưởng tượng được khuôn mặt nó khi nó thành
    đàn bà. Trong trí tưởng tượng của tôi, chỉ có hình ảnh một con bé thông
    minh và lém lỉnh. Lúc đó, nó đang học lớp năm và học rất khá. Tôi vẫn
    không thể nào quên đôi mắt to tròn ngạc nhiên đầy thích thú của nó khi
    nó mút que kem. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một niềm vui nào lớn lao đến
    thế. Giờ thì nó đang ngồi quanh bốn bức tường.

    Tôi cũng đang ngồi quanh bốn bức tường. Ở một nơi xa lạ với một thứ
    ngôn ngữ xa lạ. Nơi đây, tôi lần đầu tiên nhìn thấy những con quạ.
    Trông chúng thật thảm thương, cứ như thể số phận của chúng là suốt đời
    phải đậu trên đám dây điện chằng chịt kia vậy. Ở lab, chúng tôi nói
    chuyện với nhau bằng tiếng Anh vì nó là foreign language to everyone và
    đó là sự công bằng duy nhất mà sensei của tôi muốn thiết lập. Khi ông
    nói thì tôi hiểu ông nói gì nhưng khi tôi nói thì rõ ràng là ông không
    hiểu tôi nói gì nhưng ông vẫn khăng khăng rằng ông hiểu điều tôi muốn
    nói, và rằng chỉ có tôi là không hiểu điều ông muốn nói với tôi. Cả hai
    chúng tôi đều cô đơn trong cách diễn đạt của mình.

    Buổi sáng đầu tiên, tôi thức dậy, mở cửa sổ, nhìn thấy tuyết trắng xóa,
    lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy tuyết. Nó giống hệt như giấc mơ
    hồi tôi còn bé. Thức giấc nhìn ra cửa sổ và thấy tuyết rơi. Những bông
    tuyết hờ hững rơi. Dường như chẳng có gì cả, ngoài một màu trắng. Hàng
    cây màu trắng. Cột điện màu trắng. Tòa nhà màu trắng. Những con người
    mặc đồ trắng. Tất cả đều hiện lên với vẻ bí hiểm và ma quái. Hệt như
    một câu chuyện cổ tích, hay một đám tang.

    Bữa trưa, sensei kể cho chúng tôi nghe về một em bé học sinh cắt cổ bạn
    nó bằng một cái dao rọc giấy. Ông thản nhiên cầm cái thìa làm động tác
    đưa ngang qua cổ. Đột nhiên, tôi thấy máu phọt ra ở cổ ông, những giọt
    máu màu nâu đặc quánh như chè đậu đen mẹ tôi vẫn hay nấu vào mùa hè.
    Món sashimi bỗng trở nên khó nuốt. Bữa ăn tối, ngày thứ bảy, tôi ngồi
    cùng hai thằng bạn, một Ấn Độ, một Bangladesh. Món ăn chung duy nhất
    của chúng tôi là thịt gà. Thằng Ấn Độ tin rằng những con bò là linh
    thiêng còn thằng Bangladesh thì cho rằng những con lợn là bẩn thỉu. Tôi
    thèm thịt chó. Chúng nó hỏi tôi có thể ăn được thịt gì. "Tất cả", tôi
    đáp, "trừ thịt người".

    Ngày hôm qua, tôi nhận được tin ông tôi mất. Ông và tôi cùng có chung
    một niềm vui là nuôi gà chọi và giải toán đố. Ông bị một thứ bệnh mà y
    học không có tên gọi, nên người ta đành xếp nó vào nhóm bệnh thần kinh.
    Trong khoảng hai mươi năm, trí nhớ của ông bị gặm nhấm dần. Ban đầu,
    khái niệm về thời gian bị thu hẹp lại. Cuối cùng, tất cả các sự kiện
    trong quá khứ đều được chập lại vào một thời điểm mà ông gọi là "ngày
    hôm qua", dù thực tế có thể nó diễn ra cách đây rất nhiều năm. Lần cuối
    cùng tôi gặp ông, ông kể về một chuyến đi địa chất thời trai trẻ. Đoàn
    có mười tám người, ông là trưởng đoàn. Họ lạc vào một cái bản hoàn toàn
    không tiếp xúc với thế giới văn minh. Người trong bản giao tiếp bằng
    một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với tiếng Việt. Nó giống tiếng chim hót
    hay tiếng chó sói hú hơn là tiếng người. Họ cũng biết dùng lửa và chế
    ra một số vật dụng thô sơ khác. Đoàn địa chất được họ cho ăn một bữa
    thịnh soạn, có rất nhiều món ăn ông không biết tên. Đặc biệt, họ có một
    thứ đồ uống kỳ dị đựng trong cái ống tre. Nó không phải là rượu hay
    bia. Nó có một cái vị rất kỳ quặc mà ngôn ngữ của chúng ta không có khả
    năng diễn đạt. Ông không nhớ được là mình đã uống bao nhiêu, chỉ biết
    khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm dưới chân núi. Những người bạn đồng hành
    của ông đều biến mất. Nhiều năm sau vẫn không có tin tức gì về họ cả.

    Ông tôi có chín người con, bốn con trai và năm con gái. Bố tôi là con
    cả và là người tỉnh táo nhất nhà. Chú hai và chú ba tôi đều mắc bệnh
    thần kinh từ nhỏ, cả hai đều chết đúng ngày tròn hai mươi tuổi. Chú tư
    là người thông minh, tài hoa nhưng từ nhỏ đã được nuông chiều nên hư
    hỏng. Chú lấy vợ sớm nên con gái chú bằng tuổi tôi, chính là đứa bây
    giờ đang ngồi tù. Vợ chú là một người đàn bà nhan sắc và lẳng lơ. Bố
    tôi kể rằng, năm đứa em họ tôi lên bảy, chú tư đột nhiên bỏ nhà ra đi,
    chẳng để lại một tin tức gì. Bốn năm sau, mẹ nó tái giá. Bố dượng của
    con bé là một gã xích lô, nát rượu và cục súc. Lão hay đánh đập con bé
    cực kỳ tàn nhẫn mỗi khi nó không mang đủ tiền về cho lão mua rượu. Cũng
    cần nói thêm là sau khi mẹ nó tái giá, em họ tôi phải bỏ học đi bán vé
    số. Bố tôi lấy vợ năm ba mươi tuổi. Tôi ra đời ba năm sau đó. Các cô
    của tôi thì đều lấy chồng xa, chẳng mấy khi tôi gặp họ. Thỉnh thoảng,
    mẹ tôi bảo "cái quần mày đang mặc là may từ mảnh vải của cô Năm cho"
    hay "cái mũ này là của cô Bảy". Và như vậy trong hình dung của tôi, cô
    Năm giống hệt như cái quần kẻ sọc hai màu đen và xám mà tôi mặc suốt
    những năm cấp hai, còn cô Bảy là cái mũ màu nâu mà tôi đội cho đến tận
    ngày vào đại học. Tôi không bao giờ tưởng tượng được khuôn mặt họ. Ngay
    cả khi sau này dù đã gặp họ một vài lần, những khuôn mặt đó cũng chẳng
    thể nào in sâu vào trong trí nhớ của tôi. Cô Năm vẫn chỉ là chiếc quần
    sọc, cô Bảy vẫn chỉ là chiếc mũ nâu.

    Bố tôi là một công chức nhà nước. Ông là người luôn giữ một niềm tin
    tuyệt đối vào những giá trị mà mình đã từng tôn thờ. Khi em gái tôi có
    bầu với thằng bồ nó trước khi cưới mấy tháng, ông đã đuổi nó ra khỏi
    nhà và kiên quyết không dự đám cưới. Sau này, khi thằng cháu tôi lên
    hai, nhờ sự tác động của ông thủ trưởng cũ, một người mà bố tôi rất
    kính trọng, ông mới cho nó bước chân vào nhà. Ở ngay chính giữa phòng
    khách nhà tôi, ông cho treo một bức ảnh rất to trong đó có hình ông
    được chụp với một ông thứ trưởng nào đấy mà đến giờ tôi cũng chẳng nhớ
    tên nhân dịp ông thứ trưởng kia đến thăm cơ quan. Tấm ảnh đen trắng là
    một cái gì đó rất thiêng liêng và đặc biệt đối với tuổi thơ hai anh em
    tôi. Ông thứ trưởng, trong bộ đồ kaki giản dị, lúc nào cũng nghiêm khắc
    nhìn chúng tôi. Ngay cả buổi sáng trước khi lên đường đi du học, tôi
    vẫn thấy ông nghiêm khắc nhìn tôi. Cái nhìn không mấy thiện cảm.
    UntilU
    UntilU
    Thành Viên
    Thành Viên


    Nam
    Tổng số bài gửi : 130
    Age : 36
    Đến từ : HOU
    Hiện đang là : Student
    Registration date : 22/12/2007

    Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước Empty Re: Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước

    Bài gửi by UntilU Sat Apr 19, 2008 1:41 am

    Cứ khoảng bẩy giờ sáng, sensei đánh thức cả lab dậy tập thể dục. Ông
    dẫn chúng tôi đi lại trong khuôn viên của trường và nói những chuyện
    linh tinh nhảm nhí. Những lúc như thế, thằng Ấn Độ trở nên hoạt bát một
    cách đáng ngờ vì bình thường nó là đứa trầm tính. Mỗi lần như thế, nó
    lại kể về mối tình của nó. Nàng hai mươi hai tuổi, nước da bánh mật,
    đôi mắt to đen, khuôn mặt thánh thiện và nụ cười mê hồn. "Cuộc sống
    thật đê tiện", nó thường lẩm bẩm như thế mỗi khi bắt đầu kể về đoạn kết
    câu chuyện tình của nó. Nàng bị ép gả cho một gã cùng đẳng cấp trong
    cái giai tầng rối rắm mà mỗi khi thằng Ấn Độ mô tả, tôi mặc dù đã cố
    gắng tập trung hết sức vẫn không thể hình dung ra được. Nó thì trôi
    giạt sang cái xứ sở chết tiệt này. Nắng bắt đầu gắt, chúng tôi đi về
    lab. Buổi tập thể dục sáng thường kết thúc như vậy.

    Sau đó, chúng tôi quay về lab. Ở lab, mỗi đứa có một cái bàn nhỏ. Trên
    bàn, chúng tôi bầy la liệt đủ thứ: sách vở, máy tính, dao cạo râu, bàn
    chải đánh răng và dầu gội đầu. Thậm chí có lần tôi còn bắt gặp trong
    ngăn kéo bàn của thằng Ấn Độ có mấy cái bao cao su, chả biết nó mua ở
    đâu, nhưng tôi biết chắc chắn nó không dùng. Nó là thằng ngoan đạo.
    Công việc của chúng tôi khá đơn giản, chúng tôi thường gọi đùa là trò
    chơi nặn đất sét. Sensei giao cho tôi năm cái lọ đựng đủ các loại chất
    lỏng nhầy nhầy. Tôi bắt đầu trộn chúng với nhau, ngày nào cũng vậy.
    Ngày nào tôi cũng trộn năm dung dịch đó và chờ đợi. Một sự chờ đợi đầy
    mệt mỏi và sung sướng. Dung dịch có nhiều màu. Tôi cứ thế trộn và hy
    vọng. Hy vọng vào sự may mắn. Hy vọng rằng đôi khi Đấng Tối Cao cũng
    không quên những kẻ trộn dung dịch như tôi. Tôi chờ đợi Người ban ơn.
    Tôi ngồi trộn dung dịch vì biết rằng mình không đơn độc. Tôi ngồi trộn
    dung dịch để thấy mình còn tồn tại, mình còn có ý nghĩa. Tất cả mọi
    người ở lab chúng tôi đều làm như vậy và được trả lương. Chúng tôi ngồi
    trên những cái bàn nhỏ, tất cả đều im lặng, căng thẳng, run rẩy và sợ
    hãi. Tất cả chúng tôi đều cố lắng nghe một tiếng gọi mà chúng tôi tin
    rằng nó tồn tại mặc dù chưa từng ai trong tất cả chúng tôi nghe thấy.
    Trong trí tưởng tượng của tôi, nó có thể giống như là tiếng gió rít từ
    phía bên kia cánh đồng, hoặc tiếng quạ kêu trên nóc nhà, hay tiếng máy
    bay lượn lờ giữa đêm khuya như những bóng ma màu trắng. Nhưng rất có
    thể, trên thực tế chẳng có âm thanh nào cả. Chiều tối, sensei thu hết
    tất cả mấy lọ. Ngày hôm sau ông lại phát một loạt lọ mới.

    Ngày hôm qua, ông tôi khóc. Không có giọt nước mắt nào cả. Ông đờ đẫn
    nhìn vào bức tường màu trắng. Những vệt trắng nham nhở vốn là kết quả
    của một gã thợ nề vụng về không hiểu sao lại khiến tôi liên tưởng đến
    nét cọ của một tay họa sĩ siêu thực mà tôi quen ở quán cà phê. Tay này
    theo tôi vốn chẳng có tài cán gì, hắn chỉ là một tên bịa đặt. Những thứ
    hắn vẽ chả cái nào ra hồn cả. Hắn chỉ cho tôi một bức tranh tuyền màu
    trắng, chẳng khác gì người ta cầm một tấm vải nhúng xuống hố nước vôi,
    và bảo đây là bức "Gấu trắng ở Bắc cực". Hiển nhiên là hắn chưa bao giờ
    đến Bắc cực cũng như chưa bao giờ nhìn thấy gấu trắng. Tôi nhìn sang
    một bức tranh toàn màu đen kịt và hỏi: "Thế bức này là Chó mực ở bãi
    tha ma à?". Hắn bảo "Không. Đây là bức Bướm đêm". Thế là chúng tôi cãi
    nhau. Hắn thì khăng khăng là hắn vẽ bướm đêm, còn tôi thì khẳng định là
    tôi chỉ nhìn thấy chó mực. Cuối cùng, cả tôi và hắn đều khóc, khóc vì
    những điều ngớ ngẩn xảy ra trong cuộc đời chúng tôi, vì những cái chúng
    tôi chẳng bao giờ hình dung ra được. Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp
    lại hắn nữa. Ông tôi cầm chiếc quạt nan cũ kỹ lấy hết sức đập con ruồi
    trên bức tường. Tất nhiên, chả có con ruồi nào cả. "Lại trượt rồi", ông
    lầm bầm và bắt đầu rấm rứt khóc. Tôi muốn dỗ dành ông nhưng không biết
    làm thế nào cả. Tôi chẳng nhìn thấy con ruồi nào cả. Tôi chỉ nhìn thấy
    nhát quạt của ông đập vào tường. Nhưng tôi không biết làm thế nào để
    nói cho ông hiểu được. Làm sao tôi có thể chứng minh được điều đó? Nhỡ
    có con ruồi thật thì sao? Tôi thấy buồn rười rượi. Tôi xấu hổ vì sự ngu
    dốt của mình. Vì tôi không nhìn thấy con ruồi.

    Buổi tối, tôi và bạn gái đi chơi Hồ Tây. Đang đi bộ trên đường Thanh
    Niên, đột nhiên một gã thanh niên đầu húi cua, mặt đầy sẹo, chặn chúng
    tôi lại, cười nhăn nhở nói với bạn tôi: "Em xinh như một con phò". Đoạn
    hắn quay sang tôi cười giễu cợt. Tôi cụp mắt xuống. Tôi không dám nhìn
    vào mắt hắn. Tôi kinh hãi và hiểu rằng nếu có đánh nhau chắc tôi không
    phải đối thủ của hắn. Tôi im lặng. Tôi im lặng không phải vì tôi là kẻ
    khôn ngoan như những nhà hiền triết trong sách giáo khoa mà là vì tôi
    không biết nói gì. Tôi chưa bao giờ lâm vào tình huống khó xử như thế
    này. Thực ra, về sau này tôi mới nhận thấy rằng những tình huống kỳ
    quặc như vậy luôn luôn xảy ra. Nó xảy ra thường xuyên đến mức nhiều lúc
    tôi có cảm tưởng đó là ý muốn quái gở của Thượng đế. Cuối cùng thì mọi
    chuyện cũng qua, hắn bỏ đi, còn tôi xấu hổ. Suốt đoạn đường còn lại,
    chúng tôi không nói với nhau lời nào. Ngày hôm sau, cô ấy gọi điện nói
    lời chia tay sau "một đêm suy nghĩ rất kỹ". Cô nói rằng cô không chịu
    đựng được ý nghĩ rằng người yêu mình là kẻ hèn nhát. Tôi chẳng nói gì.
    Kẻ hèn nhát không nên nói gì cả. Tôi chia tay mối tình đầu trong nhục
    nhã. Từ đó trở đi, tôi kinh tởm đàn bà.

    Buổi chiều, gió mạnh và nắng gắt. Tôi hay cảm thấy đau đầu vào những
    lúc như thế. Đầu nhức như búa bổ, tôi không còn giữ được sự tỉnh táo
    cần thiết để nhận biết mọi thứ nữa. Thay vì trộn dung dịch màu trắng
    vào dung dịch màu đen, tôi lại trộn dung dịch màu xanh vào màu đỏ. Và
    kết quả là chả ra sao cả. Gió vẫn thổi mạnh, tai tôi ù đi vì sợ hãi.
    Tôi chẳng còn nghe thấy gì nữa ngoài tiếng gió. Càng cố gắng tập trung,
    tôi càng mất phương hướng. Tôi không còn nghĩ được điều gì nữa. Óc tôi
    như bị vỡ vụn thành trăm mảnh. Sensei đưa cho tôi cốc nước, tôi chẳng
    kịp nhìn xem nó màu gì, hình như là màu xanh. Tôi uống nhưng kết quả
    cũng không khá hơn. Tôi bắt đầu nghe thấy tiếng lầm bầm ở đâu đó. Một
    giọng nói đứt quãng, và lí nhí đến nỗi tôi lúc đầu tôi không thể phân
    biệt đó là giọng người lớn hay trẻ con. Cuối cùng tôi cũng nhận ra là
    có hai người đang nói chuyện. "Chỗ này lạnh lắm, mẹ ạ" - giọng một
    thằng bé khoảng năm sáu tuổi nói. "Nhưng mình đi tìm hai mươi năm nay
    đâu có chỗ nào tốt hơn" - người mẹ nói. Giọng bà ta trầm đục và có vẻ
    mệt mỏi. "Thế bố có ở đây không?" - thằng bé lại hỏi. "Mẹ không biết.
    Con đừng hỏi nữa, mẹ mệt lắm rồi. Mình dừng ở đây thôi. Thôi mình đi
    ngủ đi con!".

    Từ hôm đó trở đi ngày nào tôi cũng nghe thấy tiếng hai mẹ con họ vào
    lúc trước khi đi ngủ. Tôi kể cho thằng Bangladesh nhưng nó không tin.
    Nó chả tin vào cái gì ngoài lễ ramadan và những con lợn bẩn thỉu. Ngày
    nào đối với nó cũng thuộc về tháng ramadan. Nó chỉ ăn vào buổi tối sau
    khi mặt trời lặn. Sensei nhiều lần cố nhét thức ăn vào mồm nó nhưng
    không được. Hai mẹ con họ nói đủ thứ chuyện trên đời. Thỉnh thoảng họ
    lại nhắc đến người bố giấu mặt.
    UntilU
    UntilU
    Thành Viên
    Thành Viên


    Nam
    Tổng số bài gửi : 130
    Age : 36
    Đến từ : HOU
    Hiện đang là : Student
    Registration date : 22/12/2007

    Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước Empty Re: Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước

    Bài gửi by UntilU Sat Apr 19, 2008 1:42 am

    Buổi tối, tôi đi dạo trong thành phố. Một thành phố đơn điệu. Không văn
    hóa, không lịch sử, không gì cả. Chỉ đơn giản là nơi người ta đến ở,
    rồi một lúc nào đấy đột nhiên họ quyết định gọi nó là thành phố. Chín
    giờ tối, không một bóng người. Cứ đi khoảng vài trăm mét, tôi lại thấy
    một công viên mini. Buổi tối chúng giống như những nghĩa địa. Tôi đi
    mãi và thấy mệt mỏi. Chẳng có gì đặc biệt, những ngôi nhà giống hệt
    nhau với những cái mái hình chóp và hàng rào bằng một loại cây nào đó
    mà tôi không biết tên. Tôi cứ thế đi một mình, chẳng có gì cả ngoài sự
    sợ hãi. Một thành phố chết. Tôi nằm trên cái ghế đá, nước mắt trào ra.
    Tôi nhớ đến những buổi tối ngày xưa, tôi hay ngước nhìn bầu trời đầy
    sao và thấy mình hạnh phúc. Giờ đây, cái niềm vui ấy cũng chẳng còn
    nữa. Những ngôi sao kia giờ chỉ làm tôi cảm thấy sợ hãi. Chúng đang
    cười nhạo tôi. Nỗi sợ hãi mơ hồ cứ thế lớn dần lên. Tôi quá đơn độc
    dưới bầu trời này. Tôi cứ nằm yên như thế, y như một kẻ tội đồ chờ đợi
    hình phạt.

    Sáng sớm hôm sau, mới sáu giờ sáng, thằng Bangladesh đã đánh thức tôi
    dậy. Tôi lật đật chạy theo nó ra hành lang. Thân hình cao lớn của nó
    trong cái ánh sáng lờ mờ của buổi sáng mùa đông trông thật khủng khiếp.
    Thỉnh thoảng, tôi vẫn hình dung ra cảnh nó bóp cổ mình. Với cánh tay
    lực lưỡng đầy lông lá kia, chắc chắn tôi, cho dù cố gắng giãy giụa đến
    đâu, cũng không chịu đựng được quá năm phút. Đến cuối hành lang, nó chỉ
    ra sân trường, rồi thì thầm hỏi: "Mày có nhìn thấy gì không?". Tôi hơi
    ngạc nhiên, mới sáng ra mà nó đánh thức mình dậy để nhìn sensei đang
    nói chuyện với một ông giáo ở lab khác ở dưới sân trường hay sao.

    Tôi thờ ơ đáp: "Sensei đang nói chuyện". "Thế mày không thấy gì khác lạ
    à?" - nó hơi thất vọng. "Chả có gì. Ông ấy vẫn thế!". "Mày nhìn quần áo
    ông ấy xem?" - nó lại thì thầm". "Ừ. Nó có vẻ không giống mọi ngày".
    "Đấy. Mày bắt đầu thông minh rồi đấy. Mọi ngày ông ấy lúc nào cũng mặc
    đồ trắng. Nhưng cả tuần nay tao để ý. Trước giờ tập thể dục của bọn
    mình, chẳng bao giờ ông ấy mặc đồ trắng. Chỉ khi nào gặp bọn mình ông
    ấy mới mặc đồ trắng thôi". "Thì sao?". "Chẳng sao cả. Tao chỉ thấy lạ
    thôi. Mà đó là một phát hiện quan trọng đấy. À mà mày đã biết chuyện gì
    chưa?" - nó lại chuyển sang giọng thì thầm.

    Chuyện gì nữa đây? - tôi hơi bực mình. Nó đánh thức mình dậy sớm chỉ vì
    một chuyện hết sức vớ vẩn mà nó cho là unusual. Chúng tôi làm thí
    nghiệm suốt ngày chỉ mong có cái gì unusual với lại unexpected xảy ra.
    Nhưng rốt cục nó lại chẳng bao giờ xảy ra. Tất cả mọi thí nghiệm đều
    diễn ra hết sức bình thường, bình thường đến mức buồn tẻ, bình thường
    đến mức chúng tôi chẳng cần nhìn cũng biết kết quả nó phải thế, không
    thể khác được. Nhưng cuộc sống của chúng tôi thì ngược lại. Chẳng có
    một quy luật nào hết. Tất cả đều diễn ra hết sức lộn xộn, lộn xộn một
    cách bất bình thường. "Thằng Ấn Độ sắp lấy vợ" - nó vẫn thì thầm.

    Đột nhiên, tôi thấy rùng mình. Tôi nhớ có lần thằng Ấn Độ bảo với tôi
    rằng có đến tám mươi phần trăm dân Ấn cưới nhau theo kiểu arranged
    marriage. Nó cũng nằm trong cái tám mươi phần trăm của cái đất nước gần
    một tỷ dân ấy. Nó chẳng có sự lựa chọn nào hết. Cô dâu của nó có đẳng
    cấp cao hơn nó một bậc, một intercaste marriage theo cách gọi của nó.
    Điều duy nhất mà nó biết về cô dâu tương lai là một tấm ảnh. Tôi đã
    từng xem tấm ảnh ấy một lần. Cô gái trong ảnh khá dễ thương trong bộ
    quần áo cổ truyền Ấn Độ. Có lẽ khi chụp tấm hình này, cô không nghĩ
    rằng một ngày nào đó tấm ảnh sẽ là mối liên hệ duy nhất với vị hôn phu
    tương lai của cô. Tôi hỏi thằng Ấn Độ:

    - Thế mày được chọn cái gì?
    - Voi - nó lầu bầu. - Tao được chọn con voi dành cho lễ cưới. Tao sẽ
    cưỡi lên con voi đấy trong ngày cưới. Dù sao, tao cũng có sự lựa chọn
    mặc dù nó không quan trọng lắm.

    Ngay từ sáng sớm, bố mẹ thằng Ấn Độ đã đến ngồi chờ ở phòng tiếp tân.
    Họ đến để đưa nó về Ấn Độ làm đám cưới. Nó không chịu về. Họ phải bay
    một quãng đường dài để đến đây đưa nó về quê lấy vợ. Dù sao, nó cũng
    không thể trốn tránh trách nhiệm. Nó có trách nhiệm duy trì nòi giống.
    Nó có trách nhiệm cưới cô gái mà Thượng đế dành cho nó. Đấy là truyền
    thống mà nó không thể phá vỡ. Nó chẳng có sự lựa chọn nào cả vì nếu có
    chắc chắn nó sẽ không chọn sinh ra làm người Ấn Độ. Bố mẹ nó trông nhỏ
    bé và nhẫn nhục so với căn phòng tiếp tân quá rộng và quá sang trọng.
    Họ có nước da ngăm đen rất đặc trưng. Ông chồng để ria mép; cùng với
    cái trán hói, nó càng làm ông thêm nhỏ bé và nhẫn nhục. Bà vợ đội khăn
    trùm gần kín mặt nhưng nó vẫn không che được những nếp nhăn mà chỉ cần
    nhìn thoáng qua người ta đã thấy nó tồn tại mặc dù có thể thị giác
    không ghi nhận được thông tin về những nếp nhăn đó. Thằng Ấn Độ buồn bã
    đi theo bố mẹ nó ra khỏi trường. Thỉnh thoảng nó ngoái lại nhìn chúng
    tôi. Không hiểu sao tôi thấy đôi mắt thằng Ấn Độ buồn ngơ ngác giống
    hệt đôi mắt con chó cún của tôi ngày trước lúc nó sắp chết. Một tháng
    sau, chúng tôi nhận được tin nó mất. Một cái chết kỳ lạ.

    Thằng Bangladesh ngày càng ăn ít và tất nhiên là nó chỉ ăn vào buổi tối
    vì những ngày lễ ramadan chẳng bao giờ kết thúc. Nhưng điều kỳ lạ nó
    không giảm cân nào. Nó giấu thức ăn thừa dưới gầm giường cho đàn chuột.
    Khoảng nửa đêm, bọn chuột bắt đầu rúc rích mò vào phòng. Chúng bò lổm
    ngổm trên sàn nhà, leo lên cả bàn học. Mà không chỉ có thế, chúng vừa
    chạy vừa kêu rinh rích đầy khoái trá. Tôi căm ghét những con chuột màu
    xám với đôi mắt thao láo; chúng chẳng bao giờ biết xấu hổ. Thằng
    Bangladesh, ngược lại, rất quý đàn chuột. Nó thường túm cổ lấy con to
    nhất, vuốt ve một cách rất trìu mến khiến con chuột lim dim vì khoái
    cảm rồi đột nhiên nó bóp mạnh một cái. Con chuột bị đau kêu oai oái và
    cuối cùng không chịu đựng được con chuột quay đầu lại cắn một nhát vào
    tay khiến thằng Bangladesh phải buông tay ra. Ngày nào thằng Bangladesh
    và con chuột cũng chơi trò đấy. Điều kỳ lạ là con chuột mặc dù rất đau
    nhưng vẫn vui vẻ tham gia vào trò chơi cùng thằng Bangladesh, cứ như
    thể giữa chúng có một sự thỏa thuận ngấm ngầm trong trò chơi bệnh hoạn
    đó. Đàn chuột ngày càng đông, thức ăn thừa của thằng Bangladesh dần tỏ
    ra không đủ đáp ứng cho cái thói phàm ăn và sinh sản nhanh khủng khiếp
    của những con chuột, mặc dù thằng Bangladesh đã cố gắng nhịn ăn đến mức
    tối đa. Thậm chí, nó còn mang cả lọ mứt mà mẹ nó gửi cho nó ăn cả năm
    để cho đàn chuột ăn trong một tuần. Rồi nó bắt đầu đi xin cả thức ăn
    thừa của những đứa phòng bên cạnh nhưng dường như nỗ lực của nó chả
    thấm vào đâu. Cuối cùng thằng Bangladesh quyết định giảm số lượng đàn
    chuột. Đầu tiên là con chuột đầu đàn. Tối hôm đó, thằng Bangladesh vẫn
    chơi trò chơi thường lệ với con chuột rồi đột nhiên nó bóp mạnh vào
    mình con chuột. Con chuột quay đầu lại cố gắng cắn vào tay thằng
    Bangladesh nhưng lần này nó không buông tay. Bàn tay hộ pháp của nó
    càng tóm chặt con chuột hơn. Con chuột kêu la thảm thiết. Nó không ngờ
    lại có kết cục này. Trò chơi của ngày hôm qua cuối cùng cũng kết thúc.
    Con chuột biến thành một đống bầy nhầy trong tay thằng Bangladesh.
    Trong bóng tối, tôi vẫn nhìn thấy rõ trên khuôn mặt thằng Bangladesh
    hiện ra một nụ cười bí hiểm.
    UntilU
    UntilU
    Thành Viên
    Thành Viên


    Nam
    Tổng số bài gửi : 130
    Age : 36
    Đến từ : HOU
    Hiện đang là : Student
    Registration date : 22/12/2007

    Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước Empty Re: Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước

    Bài gửi by UntilU Sat Apr 19, 2008 1:42 am

    Từ hôm đó trở đi, ngày nào thằng Bangladesh cũng giết vài con chuột.
    Đàn chuột ngày càng trở nên khôn ngoan nhưng thằng Bangladesh còn thông
    minh hơn. Ngày nào nó cũng tóm được vài con chuột. Những con chuột còn
    lại phần vì nhu cầu thức ăn, phần vì cái ảo tưởng rằng với kinh nghiệm
    của ngày hôm qua chúng có thể dễ dàng chạy thoát khỏi bàn tay của thằng
    Bangladesh nên vẫn mò lên phòng vào ban đêm. Số lượng chuột giảm rất
    nhanh. Đêm hôm qua, nếu như tôi đếm chính xác thì chỉ còn mười hai con
    chuột. Thằng Bangladesh thì càng ngày càng say mê với trò chơi giết
    chuột nhưng bây giờ mỗi ngày nó chỉ giết một con vì đàn chuột giờ còn
    rất ít. Tôi để ý thấy khuôn mặt nó ngời sáng lên mỗi khi nhìn thấy con
    chuột giãy giụa trong lòng bàn tay, ngời sáng đến mức trong bóng đêm
    tôi vẫn có thể nhìn thấy cái vẻ long lanh rất khó tả trên đôi mắt thằng
    Bangladesh.

    Chiều hôm qua, thằng Bangladesh nhận được một tin đặc biệt. Buổi tối,
    nó không buồn ăn cơm. Dường như có cái gì bất ổn trong tâm trạng của
    nó. Cuối cùng nó nói với tôi:

    - Tao phải về Dhaka làm giáo sư.
    - Tuyệt vời! - tôi nói - Mày có thể làm cái mà mày thích.
    - Tao cũng chẳng biết nữa. - Nó buồn bã lắc đầu. - Từ trước đến giờ,
    tao chưa bao giờ làm cái gì độc lập cả. Tao sợ sự đơn độc. Nhất là
    trong nghiên cứu.

    Tôi không nói gì. Tôi cũng thế. Tôi sợ nỗi cô đơn khi phải đi một mình
    trên con đường mà mình không biết phương hướng. Thằng Bangladesh đột
    nhiên nói:

    - Mày có muốn đi cùng tao không?

    Tôi không trả lời. Im lặng kéo dài suốt buổi tối. Chúng tôi ngồi theo
    đuổi những ý nghĩ riêng. Chúng tôi nghĩ về tương lai trong nỗi khiếp
    sợ. Cuộc sống rồi sẽ ra sao đây?

    Ngày hôm qua, tôi đi đưa đám một người bạn thân thời phổ thông; anh mất
    ở bệnh viện tâm thần ở Trâu Quỳ. Một bệnh nhân tâm thần cùng phòng đã
    bóp cổ anh cho đến chết; sau đó, hắn dùng một con dao, loại vẫn dùng để
    rọc giấy, tự cắt cổ mình. Cho đến nay, anh vẫn là người tôi kính trọng
    nhất vì nghị lực và ý chí. Năm anh lên sáu, bố anh bỏ nhà theo một
    người đàn bà khác. Anh và em gái sống cùng mẹ và ông ngoại, một ông già
    mắc bệnh hoang tưởng, hậu quả của những cơn sốt rét rừng hồi còn ở
    chiến trường. Mẹ anh phải làm rất nhiều việc như gánh nước thuê, bán
    hàng rong, vé số... để nuôi cả gia đình. Hàng ngày, anh học một buổi
    còn một buổi phải đi bán kem để có tiền mua sách vở và đóng học phí.
    Anh luôn là người đứng đầu trong mọi kỳ thi. Hết năm thứ hai đại học,
    anh được học bổng sang Nhật học. Cùng năm đó, mẹ anh bị tai nạn giao
    thông, phải cưa hai chân. Đứa em gái anh, có lẽ vì quá mệt mỏi trước
    cuộc sống gia đình, đã bỏ nhà đi bụi đời. Mấy năm sau, người ta tìm
    thấy xác nó trong một ngôi nhà hoang ở ngoại thành. Cái chết của nó cho
    đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Học xong tiến sĩ, bạn tôi về nước và
    một thời gian sau đó thì mắc bệnh thần kinh. Sau đám tang, mẹ anh đưa
    cho tôi một cuốn vở nhỏ, loại vở có dòng kẻ ô ly vẫn dùng cho học sinh
    cấp một; bà nói rằng đây là thứ mà bệnh viện họ tìm thấy ở dưới gầm
    giường anh. Bà muốn nhờ tôi đọc hộ vì bà không biết chữ. Tôi mở cuốn vở
    ra, đó là nhật ký anh viết trong những ngày ở Trâu Quỳ. Nhật ký bắt đầu
    bằng câu: "Ngày hôm qua,..."




    Nhật Bản, 8/2004
    __________________

    Sponsored content


    Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước Empty Re: Tâm Trạng Khi Điên - Nguyễn Nguyên Phước

    Bài gửi by Sponsored content


      Hôm nay: Sun Apr 28, 2024 5:22 pm